Mối quan hệ xấu đi Chia rẽ Tito – Stalin

Chính sách đối ngoại của Nam Tư, 1945–1947

Nam Tư tuyên bố chủ quyền với Trieste, nguồn cơn xung đột với phe Đồng minh. Khu A và B lần lượt do phe Đồng minh và Nam Tư kiểm soát.

Sau chiến tranh, Liên Xô và Nam Tư đã ký một hiệp ước hữu nghị khi Tito gặp Stalin tại Moskva vào năm 1945.[11] Hai quốc gia thiết lập quan hệ song phương tốt đẹp bất chấp những khác biệt về quan điểm.[17] Stalin cho rằng chính sách đối ngoại của Nam Tư là không hợp lý vì những tuyên bố lãnh thổ của Nam Tư chồng lấn với hầu hết các nước láng giềng,[18] bao gồm Hungary,[19] Áo,[20] và Ý.[21] Tito sau đó đã có một bài phát biểu chỉ trích Liên Xô vì đã không ủng hộ các yêu sách về lãnh thổ của mình.[22] Cuộc đối đầu với các nước Đồng Minh trở nên căng thẳng vào tháng 8 năm 1946 khi Nam Tư buộc một chiếc Douglas C-47 Skytrain của Lực lượng Không quân Hoa Kỳ hạ cánh xuống gần Ljubljana và bắn hạ một chiếc khác ở trên bầu trời Bled, bắt sống 10 người và giết chết 5 người.[23] Các nước phương Tây tin rằng Stalin khuyến khích hành động này; tuy nhiên Stalin thực sự muốn tránh đối đầu với phương Tây.[12]

Tito cũng tìm cách thiết lập sự thống trị trong khu vực đối với các nước láng giềng phía nam của Nam Tư - Albania, Bulgaria và Hy Lạp. Việc Macedonia trước chiến tranh do cả ba nước Nam Tư, Bulgaria, Hy Lạp kiểm soát và người gốc Albania chiếm đa số ở Kosovo càng làm tình hình trong khu vực trở nên phức tạp. Năm 1943, Đảng Cộng sản Albania đề xuất việc chuyển Kosovo sang cho Albania quản lý. Nam Tư khi đó đã đưa ra một đối sách là hợp nhất Albania vào Nam Tư.[24] Tito và thư ký thứ nhất của Đảng Cộng sản Albania, Enver Hoxha, đã xem xét ý tưởng vào năm 1946, và đi tới quyết định hợp nhất hai nước.[25]

Năm 1946, Albania và Nam Tư ký hiệp ước tương trợ và hiệp định hải quan, gần như hoàn toàn hợp nhất Albania vào hệ thống kinh tế Nam Tư. Gần một nghìn chuyên gia kinh tế Nam Tư đã được cử đến Albania, và đại diện của Đảng Cộng sản Nam Tư đã được bổ sung vào ủy ban trung ương của Đảng Cộng sản Albania.[26] Quân đội hai nước cũng tăng cường hợp tác, tiêu biểu trong Sự cố kênh Corfu vào tháng 10 năm 1946, khiến 44 người chết và 42 người bị thương.[27] Mặc dù Liên Xô đã khẳng định trước đó rằng họ sẽ chỉ làm việc với Albania thông qua Nam Tư, Stalin vẫn cảnh báo Nam Tư nên làm chậm quá trình thống nhất với Albania.[26]

Vào tháng 8 năm 1947, Bulgaria và Nam Tư đã ký Thỏa thuận Bled mà không tham khảo ý kiến của Liên Xô. Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô Vyacheslav Mikhailovich Molotov đã lên tiếng chỉ trích hành động này.[28] Mặc dù vậy, khi Cục thông tin của Quốc tế được thành lập vào tháng 9 để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động và liên lạc của các tổ chức Cộng sản quốc tế,[29] Liên Xô đã tán dương Nam Tư như một hình mẫu để Khối phía Đông noi theo.[30] Kể từ năm 1946, các báo cáo nội bộ từ đại sứ quán Liên Xô ở Beograd đã miêu tả các nhà lãnh đạo Nam Tư ngày càng tiêu cực.[31]

Hợp nhất với Albania và hỗ trợ cho quân nổi dậy Hy Lạp

Liên Xô bắt đầu cử cố vấn đến Albania vào giữa năm 1947. Tito coi động thái này là mối đe dọa đối với sự hợp nhất sâu hơn của Albania vào Nam Tư. Theo Tito, nguyên nhân dẫn đến điều này là do cuộc tranh giành quyền lực trong ủy ban trung ương Đảng Cộng sản Albania giữa Enver Hoxha, bộ trưởng nội vụ Koçi Xoxe, và bộ trưởng kinh tế và công nghiệp, Naco Spiru. Spiru là một trong những người phản đối mạnh mẽ việc sáp nhập với Nam Tư và ủng hộ mối quan hệ chặt chẽ hơn với Liên Xô. Bị Xoxe thúc giục và những lời buộc tội của Nam Tư, Hoxha đã mở một cuộc điều tra về Spiru. Vài ngày sau, Spiru chết trong hoàn cảnh không rõ ràng, và được chính thức tuyên bố là tự sát.[32] Sau cái chết của Spiru, đã có một loạt cuộc gặp giữa các nhà ngoại giao, quan chức Nam Tư và Liên Xô, đỉnh điểm là cuộc họp giữa Stalin và Milovan Djilas vào tháng 12 năm 1947 và tháng 1 năm 1948. Stalin cuối cùng cũng ủng hộ sự hợp nhất của Albania vào Nam Tư, miễn là điều này được hoãn lại cho đến một thời điểm thích hợp và được thực hiện với sự đồng ý của người Albania. Người ta vẫn còn tranh luận về việc liệu Stalin có thực sự ủng hộ hay không, hay là ông đang theo đuổi một chiến thuật trì hoãn. Djilas cho rằng Stalin thật sự ủng hộ sự hợp nhất.[33]

Sự hỗ trợ của Nam Tư đối với lực lượng cộng sản trong Nội chiến Hy Lạp đã gián tiếp khuyến khích người Albania ủng hộ mối quan hệ chặt chẽ hơn với Nam Tư. Cuộc nội chiến ở Hy Lạp củng cố nhận thức của người Albania rằng biên giới phía nam đang bị Hy Lạp đe dọa.[34] Trong khi đó, Mỹ và Anh bắt đầu tổ chức các hoạt động thu thập thông tin tình báo ở Abania.[35] Năm 1947, mười hai đặc vụ Cơ quan Tình báo Anh đã nhảy dù xuống miền Trung Albania để bắt đầu một cuộc nổi dậy nhưng bất thành.[36] Nam Tư hy vọng rằng mối đe dọa từ Hy Lạp sẽ làm tăng sự ủng hộ của người Albania trong việc sáp nhập với Nam Tư. Các đặc phái viên của Liên Xô tại Albania cho rằng nỗ lực này đã thành công trong việc khiến người Albania cho rằng họ không thể tự vệ,[34] mặc dù các nguồn tin của Liên Xô chỉ ra rằng không có mối đe dọa thực sự nào về việc Hy Lạp xâm lược Albania.[37] Bên cạnh đó, Tito cho rằng, vì nhiều thành viên lực lượng Quân đội Dân chủ Hy Lạp (một lực lượng của Đảng Cộng sản Hy Lạp) là người Slav Macedonia, nên việc hợp tác với họ có thể cho phép Nam Tư mở rộng lãnh thổ sang Macedonia thuộc Aegea ngay cả khi Quân đội Dân chủ Hy Lạp không giành được chính quyền.[34]

Ngay sau khi Djilas và Stalin gặp nhau, Tito đề nghị với Hoxha rằng Albania nên cho phép Nam Tư sử dụng các căn cứ quân sự gần Korçë, gần biên giới Albania-Hy Lạp, để phòng thủ trước cuộc tấn công tiềm tàng của Hy Lạp và lực lượng Anh-Mỹ. Đến cuối tháng 1, Hoxha chấp nhận ý tưởng này. Hơn nữa, Xoxe chỉ ra rằng việc hợp nhất quân đội Albania và Nam Tư đã được chấp thuận. Mặc dù việc này được cho là đã tiến hành trong bí mật, Liên Xô đã biết về kế hoạch này từ một nguồn tin trong chính phủ Albania.[38]

Thành lập Liên bang với Bulgaria

Vào cuối năm 1944, Stalin lần đầu tiên đề xuất một liên bang Nam Tư - Bulgaria. Nam Tư cho rằng điều này có thể thực hiện được, nhưng chỉ khi Bulgaria trở thành một trong bảy thành viên của Nam Tư, và Pirin Macedonia được nhượng cho Macedonia thuộc Nam Tư. Vì hai bên không thể thống nhất, Stalin đã mời họ đến Moskva vào tháng 1 năm 1945 để phân xử. Ban đầu Liên Xô ủng hộ quan điểm của Bulgaria, thế nhưng vài ngày sau đó lại chuyển sang lập trường của Nam Tư. Vào ngày 26 tháng 1, chính phủ Anh đã cảnh báo chính quyền Bulgaria không được có bất kỳ thỏa thuận nào với Nam Tư trước khi ký hiệp ước hòa bình với Đồng minh. Kế hoạch trên đã bị hủy bỏ.[39]

Ba năm sau, vào năm 1948, khi Tito và Hoxha chuẩn bị triển khai Quân đội Nhân dân Nam Tư đến Albania, lãnh đạo Đảng Công nhân Bulgaria Georgi Dimitrov đã nói chuyện với các nhà báo phương Tây về việc biến Khối phía Đông thành một nhà nước có tổ chức liên bang. Sau đó, ông đưa Hy Lạp vào danh sách các nước "Dân chủ Nhân dân", khiến cả phương Tây và Liên Xô cảm thấy lo ngại. Tito cố gắng giữ Nam Tư thoát khỏi ý tưởng này, nhưng Liên Xô cho rằng lời nói của Dimitrov là bị ảnh hưởng bởi ý định của Nam Tư tại Balkan. Vào ngày 1 tháng 2 năm 1948, Molotov chỉ thị cho các nhà lãnh đạo Nam Tư và Bulgaria cử đại diện đến Moskva trước ngày 10 tháng 2.[40] Vào ngày 5 tháng 2, chỉ vài ngày trước cuộc gặp dự kiến với Stalin, Quân đội Dân chủ Hy Lạp đã phát động cuộc tổng tấn công, và 4 ngày sau tiến hành pháo kích vào Thessaloniki.[41]

Cuộc gặp với Stalin tháng 2 năm 1948

Nhà lãnh đạo Liên Xô Iosif Vissarionovich Stalin đã gặp các quan chức Nam Tư tại Moskva vào tháng 2 năm 1948

Đáp lại lệnh triệu tập của Molotov, Tito cử Kardelj và Vladimir Bakarić đến Moskva. Stalin chỉ trích Nam Tư và Dimitrov vì đã phớt lờ Liên Xô trong việc ký kết Hiệp định Bled, cũng như đưa Hy Lạp vào một liên bang giả định với Bulgaria và Nam Tư. Ông cũng yêu cầu chấm dứt cuộc nổi dậy ở Hy Lạp, cho rằng bất kỳ sự hỗ trợ nào nữa cho quân du kích Cộng sản ở đó có thể dẫn đến một cuộc xung đột lớn hơn với Hoa Kỳ và Vương quốc Anh.[41] Stalin đã hạn chế sự ủng hộ đối với Quân đội Dân chủ Hy Lạp, từ đó tuân thủ Thỏa thuận Tỷ lệ phần trăm, đặt Hy Lạp vào vùng ảnh hưởng của Anh.[42]

Stalin cũng yêu cầu ngay lập tức thành lập một liên bang giữa Bulgaria và Nam Tư với Albania sẽ tham gia sau.[43] Đồng thời, ông bày tỏ sự ủng hộ với việc thành lập các liên bang tương tự giữa Hungary và Romania cũng như Ba Lan và Tiệp Khắc. Phái đoàn Nam Tư và Bulgaria đã thừa nhận sai lầm, và Stalin đã yêu cầu Kardelj và Dimitrov ký một hiệp ước buộc Nam Tư và Bulgaria phải tham khảo ý kiến của Liên Xô về các chính sách đối ngoại.[44] Bộ chính trị Đảng Cộng sản Nam Tư họp bí mật vào ngày 19 tháng 2 và quyết định phản đối thành lập bất kỳ liên bang nào với Bulgaria. Hai ngày sau, Tito, Kardelj và Djilas gặp Nikos Zachariadis, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Hy Lạp, và thông báo cho ông rằng Stalin phản đối cuộc đấu tranh vũ trang của lực lượng cộng sản ở Hy Lạp nhưng Nam Tư hứa sẽ vẫn tiếp tục hỗ trợ.[45]

Ủy ban trung ương Đảng Cộng sản Nam Tư đã họp vào ngày 1 tháng 3 và lưu ý rằng Nam Tư sẽ chỉ có thể độc lập nếu chống lại kế hoạch phát triển kinh tế của Liên Xô ở Đông Âu.[46] (Liên Xô không đồng ý với kế hoạch phát triển 5 năm của Nam Tư vì không phù hợp với nhu cầu của Khối phía Đông mà ưu tiên phát triển chỉ dựa trên nhu cầu của địa phương.[47]) Ủy ban trung ương cũng bác bỏ khả năng thanh lập liên bang với Bulgaria, coi đó là một chiến thuật ngựa thành Troia, và quyết định tiếp tục tiến hành các chính sách hiện có đối với Albania.[46] Ủy viên Bộ Chính trị kiêm Bộ trưởng chính phủ Sreten Žujović, người không có mặt tại cuộc họp ngày 19 tháng 2, tham dự cuộc họp ngày 1 tháng 3 và thông báo tình hình cho Liên Xô.[31]

Tại Albania, Xoxe đã thanh trừng tất cả các lực lượng chống Nam Tư khỏi ủy ban trung ương Đảng Cộng sản Albania tại hội nghị toàn thể từ ngày 26 tháng 2 đến ngày 8 tháng 3.[48] Ủy ban trung ương Đảng Cộng sản Albania đã thông qua một nghị quyết tuyên bố chính sách thân Nam Tư. Các nhà chức trách Albania đã thông qua một tài liệu bí mật nêu chi tiết kế hoạch sáp nhập các lực lượng quân đội Albania với Nam Tư, với lý do sự đe dọa xâm lược từ Hy Lạp và cho rằng việc có quân đội Nam Tư tại biên giới Albania-Hy Lạp là một "điều cần thiết cấp bách".[31] Trước những động thái đó, Liên Xô đã triệu hồi các cố vấn quân sự ở Nam Tư về nước vào ngày 18 tháng 3.[48]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chia rẽ Tito – Stalin https://books.google.com/books?id=kVXuDwAAQBAJ https://books.google.com/books?id=_C1zDwAAQBAJ https://babel.hathitrust.org/cgi/pt?id=uva.x001436... https://books.google.com/books?id=p84vDgAAQBAJ https://books.google.com/books?id=wy3TBAAAQBAJ https://books.google.com/books?id=DpcBX2eH0LYC https://books.google.com/books?id=gXvoBAAAQBAJ https://books.google.com/books?id=FTw3lEqi2-oC https://books.google.com/books?id=4PTzicJt3MwC https://books.google.com/books?id=rLLfDwAAQBAJ